12:23 ngày 24/11/2024 | HOTLINE : 0983.883.366 | Email: bbt.thpl199@gmail.com
Liên hệ quảng cáo: 0942.106.666
DÒNG SỰ KIỆN

Về Lục Yên, gặp nghệ nhân giữ "điệu hát thần tiên" bên dòng sông Chảy

Đỗ Khuyến | 12:02 28/04/2023

(THPL) - Tiếng hát ngọt nào của Nghệ nhân Ưu tú Mai Hồng Chắn cứ thế ngân nga từ bờ Thác Bà bên dòng sông Chảy thân thương khiến chúng tôi chẳng thể quên trong suốt quãng đường trở về Thủ đô.

Từ thành phố Yên Bái hơn 80km về phía Đông Bắc, chúng tôi để tìm về nhà Nghệ nhân Ưu tú Mai Hồng Chắn (huyện Lục Yên) -  người gìn giữ lời ru của đồng bào dân tộc Tày tại vùng đất “ngọc” đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc Tày.

Bằng lời ca tình tứ, chị Thắm chào những vị khách phương xa bằng câu dân ca quen thuộc của đồng bào Tày:  

“Tàng mừa thâng nưa bản quây lì

 Khửn pù khau bioóc phống pần lương

Tha chiều lồng tồng bioóc mặn khao kháo

Nả đảo nọng slao pay lỉn hội

Pân mèng thương dát pích mùa xuân”

Dịch là: 

“Đường về quê chúng em xa vời

Vượt mười non, chín sông người ơi

Có đào nở rộ, có mận chín đây

Óng ánh mật ong thơm ngào ngọt

Cả bản làng sống giữa trời mây”.

 

Nghệ nhân Mai Hồng Chắn sinh năm 1986, thôn Nà Trạng, xã Minh Xuân, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái.  

 Tiếp nối mạch nguồn dân tộc

Nghệ nhân Mai Hồng Chắn được coi là nghệ nhân ưu tú trẻ nhất của huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Chị chính là thế hệ tiếp nối mạch nguồn dân tộc Tày từ "cây cao bóng cả” - nghệ nhân Hoàng Quan Nhạn. 

Theo nghệ nhân Chắn, hễ ở đâu có người Tày sống bên bờ Thác Bà thì ở đó có dân ca Tày. Bởi lẽ, sông Chảy là một trong những dòng sông hiền hòa dịu êm ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Khi ngăn dòng sông Chảy làm thủy điện đã hình thành hồ nước nhân tạo lớn (hồ Thác Bà) thuộc địa phận huyện Yên Bình và Lục Yên ( tỉnh Yên Bái), nơi đây lưu giữ nhiều giá trị văn hoá của đồng bào dân tộc Tày. 

Tiếng hát của chị Chắn đã ngân nga tiếng hát làng trên bản dưới, thậm chí là cả tỉnh Yên Bái, giao lưu với địa phương khác từ năm 6 tuổi. Bên cạnh đó, chị còn sưu tầm sách hát của cha ông; có những bài hát đều do chị tự sáng tác, đặt lời mới phù hợp. Nội dung đều ca ngợi Đảng, Bác Hồ, quê hương, đất nước, về sự đổi mới của Lục Yên, thực hiện tốt các nhiệm vụ của địa phương, xây dựng đời sống mới, nông thôn mới. 

Nhìn nét đẹp văn hoá của dân tộc đang có nguy cơ mai một trước cơ chế thị trường. Chị Chắn lại trăn trở và cho rằng bản thân mình phải trân trọng và giữ gìn mạch nguồn văn hoá đã nuôi nấng mình từ thuở bé. Sự khao khát và mong mỏi ấy đã khiến bước chân của nghệ nhân không ngừng nỗ lực, cố gắng đi qua bao cuộc hát, khẳng định niềm đam mê của bản thân bằng nhiều thành tích xuất sắc để có được kết quả như ngày hôm nay. 

Sự nỗ lực ấy có thể kể bằng hàng loạt giải thưởng: Huy chương Vàng tiết mục “Tiếng sáo Mường Lai”, hội thi nghệ thuật quần chúng và trình diễn trang phục Người đẹp các dân tộc tỉnh Yên Bái lần thứ 5 năm 2001; giải A tiết mục “Hái hoa”, liên hoan nghệ thuật hát then, đàn tính các dân tộc Tày - Nùng - Thái toàn quốc lần thứ VI năm 2018; giải B trình diễn “lễ oóc bươn của dân tộc Tày”, ngày hội văn hoá thể thao và du lịch các dân tộc vùng Tây Bắc lần thứ XIV…

Sự cống hiến suốt nhiều năm của chị đã được được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân Ưu tú” nghệ thuật trình diễn dân gian tỉnh Yên Bái có cống hiến xuất sắc trong gìn giữ, phát huy di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc năm 2022.

Nghệ nhân Mai Hồng Chắn luôn xác định bảo tồn, truyền dạy dân ca dân tộc là trách nhiệm của bản thân và tất cả mọi người nên việc bồi dưỡng bắt đầu từ trẻ mầm non trở đi.

Chị Chắn bày tỏ: “Mình là nghệ nhân thì phải xác định bảo tồn, truyền dạy dân ca dân tộc là trách nhiệm của bản thân và tất cả mọi người. Đến khi nào chân mỏi, tiếng hát không cất lên thì tôi sẽ vẫn còn truyền dạy cho con cháu, cho những ai đam mê văn hoá dân tộc, miễn sao gìn giữ được bản sắc, vốn quý của cha ông để lại”.

Cánh chim “đầu đàn” không biết mỏi 

Hễ cứ nhắc về dân ca dân Tày thì tình yêu về loại hình này trong chị lại trỗi dậy mãnh liệt. Chị cho hay: “Người Tày chúng tôi yêu ca hát, gặp nhau là hát, bất kể ở đâu hay làm gì. Dân ca dân tộc Tày có 7 làn điệu: hát then, hát cọoi , hát ví, hát khảm hải (hát bụt), hát phong slư, hát iếu (hát khắp) và cuối cùng là hát ứ noọng nòn”.

Chia sẻ về “điệu hát thần tiên”, nghệ nhân Mai Hồng Chắn nói: “Hát Then được ví "điệu hát thần tiên", điệu hát của “Trời”. Lời ca có ý nghĩa kể lại hành trình của con người lên thiên giới cầu xin Then ban cho những điều may mắn và một cuộc sống tốt lành. Không những vậy, hát Then còn phản ánh chuyện từ đời sống, bản mường, đến chuyện tình yêu, ma chay, cưới hỏi.. thể hiện rõ nhân sinh quan, thế giới quan và bản sắc văn hóa của đồng bào Tày”.

Những giai điệu đàn tính và các câu hát dân ca thấm đượm nghĩa tình đã sớm ăn sâu vào tâm trí khiến nghệ nhân không ngừng nghỉ sáng tác nhiều bài hát của đồng bào dân tộc mình.

Lần lượt, nghệ nhân Mai Hồng Chắn kể cho chúng tôi về hát cọi, hát ví, hát khảm hải, hát ru ứ noọng nòn…Hát cọi chính là một trong những điệu hát đối đáp giao duyên độc đáo của người dân tộc Tày. Đông qua, Xuân tới nam thanh nữ tú đi đến đâu là sẵn sàng hát đối để giao lưu tìm hiểu nhau và qua những cuộc hát đó nhiều đôi đã nên duyên vợ chồng. Tiếng hát làm vơi đi nỗi vất vả đêm ngày, làm tâm hồn con người thanh thản và tự tin như hoa nở mùa xuân. Như hoa phặc phiền trên núi đá đã kết nối đôi lứa trăm năm hạnh phúc.

Còn hát ví ban đầu được bắt nguồn từ hát dân ca ở đồng bằng và trung du Bắc bộ. Tuy nhiên, người Tày khi di cư đến nên có sự giao lưu văn hóa giữa cộng đồng người Việt và cộng đồng người Tày. Nhờ đó mà tiếp biến mạnh của văn hóa Tày bản địa mà hát ví có xu hướng “Tày hóa” và trở thành một loại hình dân ca của người Tày.

Đối vớt hát khảm hải là một điệu hát có ý nghĩa lớn, hấp dẫn nhất trong được đánh giá là đoạn hấp dẫn nhất trong hát “Pựt” của người Tày. “Pựt” được hiểu là một trường thơ dân gian của cộng đồng được chuyển thành lời ca, dưới sự thể hiện của thầy cùng có tên là Bụt. Ông Bụt hay bà Bụt khi làm chủ lễ trong lễ cúng vía của một gia đình sẽ phải hát  “Pựt” để cầu phúc, cầu may cho gia chủ.

Được hát theo thể thơ thất ngôn trường thiên bằng tiếng Tày và đôi câu Hán tự chính là phong slư (hay còn gọi là phảng lài). Bài hát thể hiện nỗi niềm suy tư thầm kín, sâu lắng từ đáy lòng của các chàng trai, cô gái mới quen hay đã và đang bén duyên nhau hoặc là tơ duyên trắc trở. 

Đơn giản hơn mà lại thể hiện sự trìu mến thân thương, ngôn ngữ phù hợp phổ biến khắp nơi có dân tộc Tày chính là hát ru ứ noọng nòn hay còn có tên gọi khác là vén noọng nèn; “nòn” hay “nèn” đều đồng nghĩa là ngủ. 

Tất cả đều có điệu ru mượt mà, ngân nga giữa cái nắng trưa hè tháng 4, cũng có thể là ấm áp như tia nắng ban man của mùa đông lạnh giá khiến nghệ nhân Mai Hồng Chắn quyết tâm gìn giữ các làn điệu dân ca dân tộc Tày. 

“Trẻ con Tày từ lúc sinh ra đến khi 3 tuổi đều gắn liền với chiếc nôi hoà vào tiếng hát êm ái ru ngọt ngào của các bà, các mẹ, các chị, ngày qua ngày chúng còn thuộc lòng và hát được bi bô. Đến khi trưởng thành, lời ru ấy đã trở thành hành trang từ tuổi thơ vào đời với tình cảm ơn sâu nghĩa nặng mẹ cha”, nghệ nhân Mai Hồng Chắn bộc bạch. 

Người con của Tày lớn lên cũng tắm mát tâm hồn bằng những câu hát ru mượt mà trong bài Ứ noọng nòn nổi tiếng: 

“Ứ noọng nòn

Nòn đắc noọng nòn đí

Nòn tắng pí au qua

Nòn tắng a au luổm

Luổm lầu đảy sloong boóc

Nốc choóc đảy sloong tua”.

Dịch nghĩa: 

“Ư em ngủ

Ngủ say em ngủ ngoan

Ngủ đợi chị lấy dưa

Ngủ đợi cô bắt muỗm

Muỗm to được hai ống

Chim sẻ được hai con”.

Thông qua lời ca tiếng hát, nghệ nhân Mai Hồng Chắn còn muốn mang văn hoá của người Tày thông qua những bộ trang phục truyền thống. Được làm hoàn toàn từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn trang trí; quy trình dệt thổ cẩm hoàn toàn thủ công. 

Chị cho biết: “Áo của phụ nữ Tày thường là loại áo năm thân, dài quá bắp chân, thân áo và tay bó hẹp lấy người. Bộ quần áo của dân tộc Tày bao gồm: khăn, áo, quần, dây lưng, vòng bạc đeo trên cổ và bộ xà tích đeo bên hông”.

Có thể thấy, việc giữ gìn và bảo tồn được các làn điệu dân ca hay những bộ trang phục truyền thống của Nghệ nhân Ưu tú Mai Hồng Chắn đã góp phần lưu truyền và khẳng định giá trị văn hóa Tày cổ trong cộng đồng các dân tộc cùng sinh sống bên dòng sông Chảy. 

Dân ca là một mảnh đất trù phú, một kho tàng âm điệu vô tận, là nhân tố thể hiện tính cách dân tộc Tày, chính vì vậy qua từng làn điệu dân ca mà người nghệ nhân có thể truyền tải đến người nghe hiểu thêm về bản sắc văn hóa riêng của từng dân tộc Tày gắn bó cùng Thác Bờ, tất cả góp phần phát huy giá trị đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc đều bắt nguồn từ di sản dân tộc như vậy. 

Đỗ Khuyến

Bình luận

Bình luận

Tin khác

Quảng bá thương hiệu Việt

Tôn vinh thương hiệu toàn cầu