16:03 ngày 24/11/2024 | HOTLINE : 0983.883.366 | Email: bbt.thpl199@gmail.com
Liên hệ quảng cáo: 0942.106.666
DÒNG SỰ KIỆN

Hội Mỹ nghệ Kim hoàn Đá quý Việt Nam dâng hương báo ân ông tổ ngành kim hoàn

Quốc An | 20:49 17/03/2024

(THPL) - Ngày 16/03/2024 (tức ngày 07/02 năm Giáp Thìn), Hội Mỹ nghệ Kim hoàn Đá quý Việt Nam đã tổ chức lễ dâng hương báo ân công đức hai vị Tiên sư và Tổ sư kim hoàn Cao Đình Độ và Cao Đình Hương, cùng các bậc tiền nhân có công khai sáng nghề chế tác vàng bạc được phong chức dưới triều nhà Nguyễn tại Nhà thờ Tổ (số 7, đường Chùa Ông, TP. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế).

Tham dự lễ dâng hương ông tổ ngành kim hoàn có TS. Lê Ngọc Dũng - Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hội Mỹ nghệ Kim hoàn Đá quý Việt Nam, Chủ tịch Hội Nghệ nhân và Thương hiệu Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển Đạo mẫu Việt Nam; các Quý Doanh nghiệp kinh doanh vàng bạc đá quý trên khắp cả nước. Đặc biệt, tham dự buổi dâng hương còn có đại diện lãnh đạo TP. Huế cùng các Nghệ nhân, doanh nghiệp kinh doanh vàng bạc đá quý trên địa bàn Thừa Thiên Huế…

Theo sử sách lưu lại, người có công khai sáng nghề kim hoàn Việt Nam là hai vị tổ sư họ Cao là Cao Đình Độ và Cao Đình Hương. Hằng năm, những người thợ kim hoàn lấy ngày 07/2 âm lịch (ngày giỗ của ông Cao Đình Hương – Người trực tiếp truyền nghề rộng rãi trong dân gian) làm ngày giỗ Tổ nghề Kim Hoàn. 

Hội Mỹ nghệ Kim hoàn Đá quý Việt Nam đã tổ chức lễ dâng hương báo ân công đức hai vị Tiên sư và Tổ sư kim hoàn Cao Đình Độ và Cao Đình Hương, cùng các bậc tiền nhân có công khai sáng nghề chế tác vàng bạc được phong chức dưới triều nhà Nguyễn tại Nhà thờ Tổ
Hằng năm, những người thợ kim hoàn lấy ngày 07/2 âm lịch (ngày giỗ của ông Cao Đình Hương – Người trực tiếp truyền nghề rộng rãi trong dân gian) làm ngày giỗ Tổ nghề Kim Hoàn. 
Theo ghi nhận của phóng viên Thương hiệu và Pháp luật, ngay từ sáng ngày 16/03, đã có rất nhiều đoàn thay nhau đến thắp nhang cúng bái và dâng lễ vật tại nhà thờ Tổ. Lễ vật chủ yếu là hoa, mâm trái cây, vàng mã, tiền… tùy vào tấm lòng của mỗi người, đơn vị. Cũng trong khuôn khổ chương trình, Hội Mỹ nghệ Kim hoàn Đá quý Việt Nam đã có buổi dâng hương với những nội dung chính như: báo công và cầu xin tổ tiên ban ơn phù hộ cho con cháu ngành kim hoàn vượt qua khó khăn và làm ăn thuận lợi.

Vừa thắp nén nhang thơm trong ngày giỗ kỷ niệm 214 năm ngày huý kỵ ông tổ ngành kim hoàn, TS. Lê Ngọc Dũng - Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hội Mỹ nghệ Kim hoàn Đá quý Việt Nam, Chủ tịch Hội Nghệ nhân và Thương hiệu Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển Đạo mẫu Việt Nam xúc động chia sẻ: Chúng tôi đến tham dự và dâng hương kính nhớ ông tổ ngành kim hoàn với tâm ý thành tâm tạ ơn ông tổ đã phù hộ cho chúng tôi trong thời gian qua, và cầu xin ơn phù hộ thành công cho tất cả con cháu ngành kim hoàn. 

Nhân dịp này, Hội Mỹ nghệ Kim hoàn Đá quý Việt Nam đã trao tặng 35 triệu đồng phí trông coi Nhà thờ Tổ Kim hoàn Cao Đình Độ năm 2024. Món quà không mang nặng giá trị vật chất, nhưng là tình cảm của Hội và các thành viên trong Hội gửi gắm nhằm chia sẻ với Nhà thờ Tổ. 

Theo tìm hiểu, Vị Đệ nhất tổ sư Cao Đình Độ sinh năm Giáp Thìn (1744), tại làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở thiếu thời ông rất ham học và được truyền thụ nền giáo dục Nho giáo. Lớn lên ông làm nghề bịt đồng (tức là hàn khay gãy, bịt chén bể...). Vào thời đó, các chúa Nguyễn nắm trong tay được nhiều mỏ vàng, đặc biệt là mỏ Bồng Miêu ở tỉnh Quảng Nam. Nhờ thế mà đồ trang sức trong phủ chúa đều làm bằng vàng. 

TS. Lê Ngọc Dũng - Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hội Mỹ nghệ Kim hoàn Đá quý Việt Nam, Chủ tịch Hội Nghệ nhân và Thương hiệu Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển Đạo mẫu Việt Nam
Hội Mỹ nghệ Kim hoàn Đá quý Việt Nam đã có buổi dâng hương với những nội dung chính như: báo công và cầu xin tổ tiên ban ơn phù hộ cho con cháu ngành kim hoàn vượt qua khó khăn và làm ăn thuận lợi.

Nhưng nghề kim hoàn ở nước ta chỉ mới phôi thai, dân ta chưa có ai thành thạo nghề này. Các vật dụng quý, đồ trang sức của vua chúa hay quan lại đều phải thuê thợ kim hoàn người Trung Quốc chế tác. Những người thợ này, hoặc theo thuyền buôn sang thông thương, hoặc xin trú ngụ để hành nghề. Họ giấu nghề rất kỹ, không cho người địa phương biết để giữ độc quyền hành nghề. Chúa Nguyễn Phúc Khoát nhận ra sự thiệt thòi của nền thủ công mỹ nghệ nước nhà, thường rất băn khoăn nên đã ra lệnh cho quan lại tìm cách hợp tác sản xuất, kinh doanh nhưng đều không có kết quả.

Trong hoàn cảnh đó, niềm đam mê lớn của người thợ trẻ Cao Đình Độ là muốn trở thành một người thợ kim hoàn xuất sắc. Ước mơ mãnh liệt ấy ngày đêm luôn thôi thúc, buộc ông lên đường “tầm sư học đạo”. Để học được nghề kim hoàn, ông phải dành nhiều thời gian học tiếng Hoa, theo dõi lối sinh hoạt, giao thiệp của họ, cải trang thành người Hoa xin vào giúp việc cho một chủ tiệm vàng ở Thăng Long (Hà Nội). Bởi thời kỳ này chỉ có người Hoa mới nắm được cách chế tác và độc quyền sản xuất, buôn bán vàng bạc trong cả nước.

Với vốn Nho học phong phú cộng thêm tính hiếu học và lòng trung thực của ông khiến chủ tiệm kim hoàn người Hoa cảm động, quý mến và truyền nghề cho ông. Mặc dù, người Hoa có tiếng là giữ nghề, không truyền cho người ngoài, nhưng với tư chất thông minh, lanh lợi sẵn có, cộng với đôi bàn tay khéo léo và sự cần cù, sáng tạo nên ông quan sát tìm hiểu và nắm bắt được bí quyết nghề kim hoàn của người Hoa. Với ý chí phải học cho thành tài, ông học cả cách chế tạo dụng cụ cần thiết của nghề chạm trổ vàng bạc và không từ chối bất cứ việc gì chủ sai bảo. Công sức của ông đã được đền đáp xứng đáng, tay nghề ông ngày càng thành thạo và đạt trình độ kỹ thuật tinh xảo, đủ sức tranh tài với những thợ kim hoàn người Hoa khác tại đất Thăng Long thời bấy giờ.

Năm Quý Mão (1783), quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân, đường vào Thuận Hóa thông thương nên ông đã cùng vợ con men theo bờ biển vào Nam và dừng chân lập nghiệp tại làng Kế Môn (nay thuộc xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế). Tại đây, ông đã truyền nghề cho con trai mình là Cao Đình Hương. Thừa hưởng đức tính thông minh của cha, Cao Đình Hương tiếp thu nghề kim hoàn một cách nhanh chóng và trở thành một người thợ thành thục trong nghề kim hoàn tại Thuận Hóa. Và ông Cao Đình Độ còn truyền nghề cho một số học trò thuộc hai họ Huỳnh Công và Trần Mạnh. Về sau, hai họ Huỳnh, Trần tiếp tục truyền nghề lại cho con cháu. Hoạt động truyền nghề đó đã biến làng Kế Môn thành làng thợ kim hoàn lớn vào bậc nhất ở xứ Đàng Trong.

Dưới thời nhà Tây Sơn, vua Quang Trung cũng là người quan tâm đến nền thủ công nghiệp nước nhà, đã lập ra ngành Ngân Tượng và danh tiếng ông Cao Đình Độ được lan truyền đến triều đình. 

Năm 1790, vua Quang Trung triệu hai cha con ông cùng một số thợ bạc ở làng Kế Môn vào triều để lập đội Cơ vệ Ngân tượng, nơi chuyên nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ vàng bạc và đồ trang sức cung đình. Trước công đức và những đóng góp lớn lao đó, ông được triều đình phong chức Lãnh binh, phó Lãnh binh là Cao Đình Hương. Thời gian này, gia đình ông sống tại làng Cao Hậu (thường gọi là Côi Hậu), huyện Hương Trà (nay là phường Hương Sơ, thành phố Huế).

Đến khi chúa Nguyễn Ánh chiếm lại đất Thuận Hóa - Phú Xuân, lập nên vương triều Nguyễn, lấy niên hiệu Gia Long vào năm 1802, hai cha con ông Cao Đình Độ và Cao Đình Hương cũng như nhóm thợ làng Kế Môn vẫn được vua Gia Long trọng dụng, cấp bổng lộc và giữ nguyên tước cũ để tiếp tục bảo tồn và phát triển nghề kim hoàn trong Kinh thành. Hai ông vẫn được tiến cử giữ chức vụ này chứng tỏ là người có tài và đức hạnh nên được nhà vua và triều đình rất tin dùng. Các sản phẩm từ vàng bạc như trâm cài, hoa tai, vòng xuyến, nhẫn... được sử dụng ở Kinh thành Phú Xuân chủ yếu được tạo tác bởi những người thợ kim hoàn làng Kế Môn.

Vào ngày 27 tháng 2 năm Canh Ngọ (28/2/1810), ông Cao Đình Độ qua đời, hưởng thọ 66 tuổi. Nhà vua và triều đình thương tiếc, truy phong tước hiệu: “Đệ nhất tổ sư”, được ban đất xây lăng mộ như các quan đại thần và cử hành tang lễ chu tất, an táng tại ấp Trường Cởi (nay là phường Trường An, thành phố Huế). Mặc dù còn được kế tục sự nghiệp quản lý của cha trong triều với chức quan Lãnh binh, nhưng bằng cách nhìn nhạy bén của người trong nghề, Cao Đình Hương nhìn thấy hoài bão của cha mình sẽ bị mai một theo thời gian, không những thế, nghề kim hoàn sẽ bị thất truyền nếu ông chỉ tập trung phục vụ trong cung vua. Vì thế, ông Cao Đình Hương quyết định từ quan về quê để tìm người nối nghiệp gia đình. Quan Thượng thư bộ lại ở Thuận Hóa lúc bấy giờ là Trần Minh cùng vợ là Huỳnh Thị Ngọc đã mời ông về phủ dạy nghề cho 3 người con là Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền và 3 người cháu là Huỳnh Quang, Huỳnh Bảo, Huỳnh Nhật.

Ngày 7 tháng 2 Âm lịch (8/2/1821), ông Cao Đình Hương qua đời, hưởng thọ 48 tuổi, được vua Minh Mạng phong tước hiệu: “Đệ nhị tổ sư”, phần mộ được an táng bên cạnh mộ phần tổ phụ tại ấp Trường Cởi. Trước khi mất, tâm huyết sau cùng của ông là mong muốn học trò của mình đem nghề kim hoàn truyền bá rộng khắp trong dân gian.

 

Quốc An

Bình luận

Bình luận

Tin khác

Quảng bá thương hiệu Việt

Tôn vinh thương hiệu toàn cầu