20:07 ngày 08/08/2024 | HOTLINE : 0911.344.555 | Email: bbt.thpl@gmail.com
Liên hệ quảng cáo: 0942.106.666

DÒNG SỰ KIỆN

Phân chia tài sản chung của vợ chồng, mỗi tòa áp dụng một kiểu khiến đương sự bức xúc

09:55 08/08/2024

(THPL) - Thạc sĩ Luật Nguyễn Mạnh Thuật: “Để có cách hiểu, áp dụng thống nhất và hạn chế ý chí cá nhân của người xét xử, cần cụ thể hoá hơn nữa các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phân chia tài sản chung vợ chồng”.

Tài sản chung của vợ chồng nhưng tòa chia tỷ lệ 70-30?

Luật hôn nhân gia đình (HN&GĐ) chỉ nêu nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố khác theo khoản 2, Điều 59, còn mức độ, tỷ lệ như thế nào sẽ giao cho Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX) quyết định nhưng họ phải diễn giải các căn cứ cho việc phân chia tỷ lệ đó. Tuy nhiên, trên thực tế việc phân chia tài sản chung trong nhiều vụ án ly hôn đang gặp phải những vấn đề bất cập, rắc rối vì quy định không rõ ràng. Vụ án dưới đây là một minh chứng.

Tại bản án sơ thẩm số 78/2022/HNGĐ-ST ngày 28/11/2022 của TAND huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang xét xử vụ án tranh chấp ly hôn, con chung và tài sản và bản án phúc thẩm số 27/2023/HNGĐ-PT ngày 28/6/2023 giữa chị Đào Thị Anh (Đào Huyền Anh là bị đơn) và anh Thân Đức Hoạch (nguyên đơn), cùng trú quán tại tổ dân phố Vân Cốc 1, phường Vân Trung, thị xã Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Tại phần Quyết định của bản án phúc thẩm số 27 của TAND tỉnh Bắc Giang xác định rất rõ:

Tài sản chung của vợ chồng chị gồm: 01 đất ở diện tích là 319,3m2, diện tích đo thực tế là 329,5m2 (tại tổ dân phố Vân Cốc 1, Phường Vân Trung, thị xã Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) trị giá 5.931.000.000 đồng (năm tỷ, chín trăm ba mươi mốt triệu đồng); 01 nhà ở hai tầng, diện tích 80,4m2 trị giá 438.307.200 đồng (bốn trăm ba mươi tám triệu, ba trăm linh bảy ngàn, hai trăm đồng); 01 dãy nhà trọ gồm 15 phòng trọ trị giá 1.227.772.800 đồng (một tỷ, hai trăm hai mươi bảy triệu, bảy trăm bảy mươi hai ngàn, tám trăm đồng); 01 bán mái trước nhà hai tầng trị giá 3.135.600 đồng ( ba triệu, một trăm ba mươi lăm ngàn, sáu trăm đồng); 01 bán mái đầu hồi nhà và đoạn sân trị giá 17.547.300 đồng ( mười bảy triệu, năm trăm bốn mươi bảy ngàn, ba trăm đồng); 01 kiốt loại B trị giá 9.720.000 đồng (chín triệu, bảy trăm hai mươi ngàn đồng); 01 cổng sắt trị giá 10.506.240 đồng (mười triệu, năm trăm linh sáu ngàn, hai trăm bốn mươi đồng); 01 nhà bếp trị giá 10.534.050 đồng (mười triệu, năm trăm ba mươi tư ngàn, không trăm năm mươi đồng); tường rào trị giá 1.263.600 đồng (một triệu, hai trăm sáu mươi ba ngàn, sáu trăm đồng); 01 sân lát gạch Kinh Bắc diện tích 67,8m2 trị giá 1.762.800 đồng (một triệu, bảy trăm sáu mươi hai ngàn, tám trăm đồng). Tổng cộng tài sản trị giá 7.651.549.590 đồng.

PGS-TS Nguyễn Văn Cừ trả lời phỏng vấn.

Tại phần phân chia tài sản chung, Tòa nêu rõ:

- Giao cho chị Đào Thị Anh quản lý phần diện tích đất ở trị giá là 108,4m2 đất ở trị giá 1.951.200.000 đồng, thuộc thửa đất số 545, tờ bản đồ số 22, địa chỉ tổ dân phố Vân Cốc 1, phường Vân Trung, thị xã Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (đây cũng là nơi ở duy nhất của 3 mẹ con chị Đào Thị Anh hiện nay)…Tổng giá trị tài sản chị Anh được giao là 3.184.571.720 đồng…

- Giao anh Thân Đức Hoạch được chia 221,1m2 đất ở trị giá 3.979.800.000, thuộc thửa đất số 545, tờ bản đồ số 22, địa chỉ tổ dân phố Vân Cốc 1, phường Vân Trung, thị xã Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất….. Tổng tài sản anh Hoạch được giao là 4.466.977.870 đồng.

Chị Đào Thị Anh phải trả anh Thân Đức Hoạch 540.996.925 đồng tiền chênh lệch tài sản (gồm tiền chênh lệch tài sản trên đất là 367.345.885 đồng; tiền chênh lệch giá trị đất là 171.900.000 đồng) - nội dung bản án nêu.

Theo bản án tuyên phân chia tài sản chung của vợ chồng thì tổng tài sản anh Hoạch nhận được sẽ là 5.007.974.795 đồng, còn chị Đào Anh nhận được tổng tài sản là 2.643.574795 đồng.

Pháp luật không thể ngầm hiểu hoặc hiểu nhầm

Liên quan tới việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, Thạc sĩ - Luật sư Nguyễn Mạnh Thuật nêu quan điểm: “Khi ly hôn, Tòa án giải quyết chia tài sản chung vợ chồng theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 59 Luật HN&GĐ 2014 và tại các Điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật HN&GĐ 2014. Vì thực tế mức độ mâu thuẫn, tình trạng quan hệ, tình trạng tài sản, công sức đóng góp, tình trạng mỗi bên trong quan hệ của mỗi vụ việc đều rất khác nhau, không định lượng, định tính được nên không thể quy về một công thức chung.

Do vậy, Luật HN&GĐ chỉ nêu nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố khác theo khoản 2 Điều 59, còn mức độ, tỷ lệ như thế nào sẽ giao cho Thẩm phán, HĐXX quyết định nhưng họ phải diễn giải các căn cứ cho việc (tỷ lệ) chia đó. Bản chất định tính, định lượng quan hệ xã hội sẽ rất khó và không thể tuyệt đối.

Để có cách hiểu, áp dụng thống nhất và hạn chế ý chí cá nhân của người xét xử, theo tôi nên ban hành Nghị định hướng dẫn chi tiết cụ thể hoá hơn nữa các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phân chia tài sản chung vợ chồng. Ví dụ, 4 yếu tố quy định tại Khoản 2 Điều 59 thì mỗi yếu tố có thể làm thay đổi tỷ lệ phân chia theo một khung biên độ nhất định.

Nếu cho 4 yếu tố đó làm thay đổi tỷ lệ phân chia 50% thì mỗi yếu tố thay đổi 12.5%. Như vậy, thêm hoặc bớt một yếu tố mà chia tăng hay giảm. Tuy nhiên, cần hướng dẫn chi tiết hơn việc yếu tố cũng như các tình tiết loại trừ”- Thạc sĩ Thuật bày tỏ.

Trung tướng Trần Văn Độ (nguyên Phó Chánh án TAND Tối cao, nguyên Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương).

Trung tướng Trần Văn Độ (nguyên Phó Chánh án TAND Tối cao, nguyên Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương) cho hay: “…Luật HN&GĐ nêu nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố khác theo Khoản 2, Điều 59, còn mức độ, tỷ lệ như thế nào sẽ giao cho Thẩm phán, HĐXX quyết định nhưng họ phải diễn giải các căn cứ cho tỷ lệ chia đó. Đặc biệt phải tính đến lỗi của các bên và nghiêng về bảo vệ người phụ nữ để làm căn cứ phân chia tài sản chung của vợ chồng".

Phó giáo sư - Tiến sĩ (PGS-TS) Nguyễn Văn Cừ, nguyên Trưởng bộ môn Luật HN&GĐ Đại học Luật Hà Nội nêu quan điểm: “Về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là chia đôi (50-50), tuy nhiên có tính đến công lao đóng góp và lỗi của các bên để tính nhưng tỉ lệ chia không thể quá chênh lệch. Có thể là 60-40; 65-35, tùy từng vụ việc cụ thể. Hiện nay không có những văn bản cụ thể để quy định chi tiết hoặc hướng dẫn áp dụng phân chia tỉ lệ tài sản chung của vợ chồng cho nên khi Thẩm phán, HĐXX áp dụng cũng rất khác nhau.

Thạc sĩ - Luật sư Nguyễn Mạnh Thuật trả lời phỏng vấn.

Nhiều vụ án phân chia tài sản quá chênh lệch khiến cho đương sự bức xúc…Tại điểm D của điều 59 Luật HN&GĐ cũng tính đến lỗi của vợ/chồng nhưng cũng không chỉ ra cụ thể phải chịu phần tài sản ít hơn là bao nhiêu. Đây là điều bất cập”- PGS-TS Nguyễn Văn Cừ phân tích.

Trao đổi với phóng viên, chị Đào Thị Hương Giang, người đại diện theo ủy quyền của chị Đào Thị Anh bày tỏ: “Nhìn vào phần phân chia tài sản chung tôi nhận thấy quý Tòa xử ép và phi lý. Trong khi anh Hoạch là người có lỗi (có video kèm theo) và cũng chính anh Hoạch làm đơn bỏ vợ. Từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, chị Đào Thị Anh phải nuôi dạy 2 con, anh Hoạch không đóng góp cho vợ 1 xu nào mặc dù tòa tuyên anh Hoạch phải đóng góp cho chị Anh tiền nuôi con hàng tháng. Vì vậy, tôi đã khiếu nại toàn bộ phần phân chia tài sản chung, đồng thời tôi cũng đề nghị làm rõ: căn cứ vào Điều, Khoản nào để Tòa phân chia tài sản chung của vợ chồng với tỉ lệ là 70-30 trong khi người chồng có lỗi? Hiện chị Đào Anh là người bệnh tật, ốm đau liên miên nhưng Tòa lại không quan tâm tới điều này, vì sao? ”

Cũng theo chị Giang, chị đã gửi đơn khiếu nại và đề nghị lần 2 tới Cơ quan tố tụng tỉnh Bắc Giang nhưng chị chưa nhận được câu trả lời. Hiện chị Giang đã gửi đơn tới Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao để đề nghị xem xét Giám đốc thẩm đối với bản án nêu trên.

Toà soạn Thương hiệu và Pháp luật sẽ tiếp tục đưa tin về vụ án./.

 Khoản 2, Điều 59 Luật HN&GĐ:

“Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng”.

PV

Bình luận

Bình luận

Tin khác

Quảng bá thương hiệu Việt

Tôn vinh thương hiệu toàn cầu