07:38 ngày 15/02/2025 | HOTLINE : 0983.88.33.66 | Email: bbt.thpl199@gmail.com
Liên hệ quảng cáo: 090.1111.388
DÒNG SỰ KIỆN

Xuất khẩu nông sản Việt Nam – Những mảng màu sáng tối

09:14 24/01/2025

(THPL) - Thời gian qua, chúng ta đã chứng kiến sự bứt phá ngoạn mục của nông sản Việt Nam. Có thể nói, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp ngành nông nghiệp Việt Nam tham gia thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu. Việt Nam đã nằm trong nhóm 15 quốc gia xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới và đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, cùng với thành công đó, xuất khẩu nông sản Việt Nam cũng ngày càng bộc lộ những hạn chế, mà suốt một thời gian dài vẫn chưa khắc phục được. Cứ như thế, hai mảng màu sáng tối vẫn đan xen trong “bức tranh” xuất khẩu nông sản Việt.

Nông sản Việt Nam tạo được vị thế trên thị trường thế giới

Số liệu thống kê cho thấy, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của nước ta năm 2021 đạt 48,7 tỷ USD, năm 2022 đạt 53,22 tỷ USD, đến năm 2023 đạt 53,01 USD. Năm 2024, theo ghi nhận, kết thúc tháng 11/2024, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản 11 tháng năm 2024 đã đạt 56,74 tỷ USD… Việc giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản liên tục tăng theo từng năm đang phần nào cho thấy nguồn lực dồi dào, lợi thế, năng lực cạnh tranh; chính sách, chiến lược phù hợp đã tạo đà cho xuất khẩu nông sản Việt Nam bứt phá.

Nhiều sản phẩm xuất khẩu nông sản Việt Nam đang tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Ảnh ST.

Hiện tại Việt Nam đã có 11 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có 7 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 3 tỷ USD. Trong đó gỗ và sản phẩm lâm sản đạt 17 tỷ USD; tôm đạt 4,3 tỷ USD; cà phê đạt 4 tỷ USD; gạo đạt 3,5 tỷ USD; cao su đạt 3,3 tỷ USD; rau quả đạt 3,3 tỷ USD và hạt điều đạt 3,1 tỷ USD). Việt Nam cũng là nước xuất khẩu hàng đầu thế giới nhiều mặt hàng nông sản như rau quả, gạo, cà phê, hạt điều, hồ tiêu, thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ… Nhiều mặt hàng giữ được vị thế quan trọng trên thị trường thế giới, trong đó xuất khẩu tiêu và điều đứng thứ nhất, sắn và sản phẩm từ sắn đứng thứ hai, gạo đứng thứ ba và cà phê đứng thứ năm thế giới. Nhiều sản phẩm nông sản xuất khẩu tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu và đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng nước ngoài như rau quả, gạo, cà phê.

Trong khi đó, thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam cũng ngày càng đa dạng hóa với nhiều thị trường lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia….Chúng ta đã đi vào được những thị trường “khó tính” như Nhật Bản và một số nước Châu Âu – các quốc gia có những quy định cao về tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, đồng thời áp dụng quá trình kiểm soát chặt chẽ về nguồn nông sản nhập khẩu.

Số liệu thống kê cho thấy, năm 2022, xuất khẩu nông sản chủ lực tăng trưởng ở hầu hết các thị trường. Các thị trường châu Á chiếm 44,7% thị phần, châu Mỹ 27,4%, châu Âu 11,3%, châu Đại Dương 1,7% và châu Phi 1,7%. Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất, đạt 13,3 tỷ USD, chiếm 25% thị phần. Đứng thứ 2 là Trung Quốc khoảng 10,05 tỷ USD, chiếm 18,9% thị phần; thứ 3 là Nhật Bản với giá trị đạt 4,2 tỷ USD, chiếm 7,9%; đứng thứ 4 là Hàn Quốc với giá trị đạt 2,5 tỷ USD, chiếm 4,7%. Năm 2023, giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc cao nhất, chiếm tỷ trọng 23,2%, Hoa Kỳ ở vị trí thứ hai chiếm 21% và Nhật Bản vị trí thứ ba chiếm 7,3%.

 Vẫn còn nhiều nỗi lo về tính bền vững

Mặc dù đã đạt được những thành tựa khả quan bước đầu nhưng xuất khẩu nông sản Việt thời gian qua cũng bộc lộ một số tồn tại, hạn chế. Dễ nhận ra nhất đó là xuất khẩu còn phụ thuộc nhiều vào một vài thị trường, đặc biệt là Trung Quốc và Mỹ. Trong giai đoạn 10 năm gần đây, hai thị trường là Trung Quốc, Mỹ chiếm trên 40% tổng giá trị xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản.

Đối với Trung Quốc, dù vẫn biết đây là thị trường giàu tiềm năng cho xuất khẩu nông sản, những cần phải thấy rõ rằng, nó không chỉ đối với các doanh nghiệp Việt Nam mà còn dành cho các quốc gia khác. Mặt khác, hiện các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu mới xuất khẩu được nông sản vào các tỉnh giáp biên giới mà chưa vào sâu được nội địa Trung Quốc. Vì muốn vào sâu được thị trường nội địa Trung Quốc thì phải chế biến tinh, sâu, trong khi hàm lượng nông sản chế biến tinh, sâu các sản phẩm nông sản hiện nay của Việt Nam lại chưa nhiều.

Một số mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam đứng đầu thế giới về giá trị xuất khẩu, như tiêu, điều, tôm, cá tra, cà-phê, đồ gỗ nội thất, gạo... nhưng thứ hạng về giá xuất khẩu lại rất thấp. Cụ thể, xuất khẩu hạt tiêu xếp thứ 1 thế giới về khối lượng nhưng giá xuất khẩu tiêu của Việt Nam chỉ đứng thứ 8; tương tự, hạt điều đứng thứ 1 thế giới nhưng giá đứng thứ 6, gạo, cà-phê đứng trong nhóm thứ 2 và thứ 3 thế giới nhưng giá xuất khẩu chỉ đứng thứ 10.

Xây dựng, nâng cao chuỗi cung ứng toàn diện từ sản xuất, thu hoạch, chế biến, xuất khẩu để gia tăng giá trị sản phẩm nông sản xuất khẩu. Ảnh ST.

Việc giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản thấp xuất phát từ nguyên nhân Việt Nam còn xuất khẩu hàng thô và sơ chế quá nhiều (chiếm khoảng 60%; trong khi đó ở các nước phát triển tỷ lệ này chỉ có 2%).

Thời gian qua, với việc nhiều thỏa thuận, nghị định thư xuất khẩu chính ngạch các sản phẩm nông sản, đặc biệt là trái cây của Việt Nam vào các thị trường trên thế giới đã mở ra cơ hội tăng giá trị xuất khẩu lên gấp nhiều lần, tạo nguồn thu nhập ổn định cho nông dân Việt Nam. Hội nhập quốc tế đem lại cơ hội thuận lợi cho xuất khẩu, nhưng cũng đặt ra rất nhiều thách thức mới đối với nông nghiệp Việt Nam trong thời gian tới. Ngoài sự quay lại của xu hướng bảo hộ thương mại trên toàn cầu, những xung đột chính trị, xung đột lãnh thổ trong các khu vực và giữa các nền kinh tế lớn; thay đổi trong chính sách thương mại; các nước gia tăng các rào cản kỹ thuật đối với thương mại, các biện pháp phòng vệ thương mại, như chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ khẩn cấp,... sẽ là những thách thức mà các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam liên tục phải đối mặt.

Trong khi đó, hiện tại các doanh nghiệp thu mua, vận chuyển, chế biến nông sản Việt Nam đang còn thiếu trang, thiết bị cơ sở vật chất vận hành chuỗi cung ứng lạnh hiệu quả khiến tổn thất lượng và chất nông sản. Ngoài ra, kết cấu hạ tầng và dịch vụ logistics phục vụ thương mại biên giới hạn chế, kho bãi còn đơn sơ, các dịch vụ logistics hỗ trợ xuất, nhập khẩu qua đường biên còn đơn giản, chưa tạo giá trị gia tăng cho mặt hàng nông sản Việt Nam.

Đặc biệt, các mặt hàng nông sản xuất khẩu khi xuất khẩu sang các nước hầu như chưa xây dựng được thương hiệu, chưa có logo, nhãn mác của Việt Nam. Đây là một trong những hạn chế lớn làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm đồng thời hạn chế tham gia sâu vào hệ thống phân phối bán lẻ của các nước nhập khẩu.

Tất cả những tồn tại nêu trên đang đặt ra cho xuất khẩu nông sản Việt Nam phải nhanh chóng có những giải pháp căn cơ.

Theo các chuyên gia, tăng cường chế biến tinh, sâu là giải pháp cốt lõi. Vì khi chất lượng nông sản đạt tiêu chuẩn quốc tế thì không chỉ thị trường nội địa Trung Quốc mà bất cứ quốc gia nào, nông sản Việt Nam cũng đều có thể tiếp cận được. Về lâu dài, điều này có ý nghĩa rất quan trọng, giúp nâng cao uy tín và thương hiệu cho nông sản Việt Nam.

Tuy nhiên, để có sản phẩm đạt tiêu chuẩn, yếu tố tiên quyết là cần có vùng nguyên liệu tốt. Điều này đặt ra đòi hỏi các doanh nghiệp cần đồng quản lý, kiểm soát, giám sát chất lượng từ vùng nguyên liệu. Nguyên liệu không rõ nguồn gốc, xuất xứ thì khả năng vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm là rất cao.

Một giải pháp căn cơ đó là cần sớm có các phương án, chính sách và mô hình hiệu quả, kết nối chuỗi cung ứng toàn diện từ sản xuất – thu hoạch cho đến thông quan – xuất khẩu. Điều này không chỉ giúp các doanh nghiệp trong ngành hàng nông sản giảm được chi phí logistics (chi phí logistics hiện còn quá cao, chiếm khoảng 15% - 25% tùy theo mặt hàng) mà còn giúp gia tăng chất lượng sản phẩm nông sản, từ đó tăng sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới.

Lâm Tới

Bình luận

Bình luận

Tin khác

Quảng bá thương hiệu Việt

Tôn vinh thương hiệu toàn cầu