06:20 ngày 12/12/2024 | HOTLINE : 0983.883.366 | Email: bbt.thpl199@gmail.com
Liên hệ quảng cáo: 0942.106.666
DÒNG SỰ KIỆN

Quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong bối cảnh thực thi các FTA

18:30 11/12/2024

(THPL) - Chiều 11/12/2024, tại Văn phòng Tổng cục Hải quan, Học viện Tài chính phối hợp với Tổng cục Hải quan tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia về chủ đề “Quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong bối cảnh thực thi các FTA: Thực trạng và giải pháp”.

Ông Lưu Mạnh Tưởng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan và PGS.TS Nguyễn Mạnh Thiều, Phó Giám đốc Học viện Tài chính đồng chủ trì hội thảo.

Phát biểu tại Hội thảo, ông Nguyễn Mạnh Thiều, Phó Giám đốc Học viện Tài chính cho biết: Hội thảo là diễn đàn để ngành Hải quan trao đổi, thảo luận tìm giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế đối với hàng hóa, xuất khẩu nhập khẩu của cơ quan hải quan các cấp và góp phần tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi hơn cho doanh nghiệp. Xuất phát từ những điều kiện thực tiễn Việt Nam, chủ đề hội thảo là rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn thiết thực bởi các lý do: 

Thứ nhất, tính đến tháng 11/2024, Việt Nam đã ký kết 19 hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương (FTA) với hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có tất cả các nước phát triển, các nước thuộc nền kinh tế mới nổi và các nước trong khu vực, như: AFTA, ACFTA, AKFTA, AJCEP, CPTPP, UKVFTA, RCEP, EVFTA… Đặc biệt, trong những năm gần đây, Việt Nam đã đàm phán ký kết thành công các FTA thế hệ mới (chẳng hạn như CPTPP, EVFTA và RCEP) với những đặc trưng là: Các cam kết sâu rộng và toàn diện, bao hàm những cam kết về tự do thương mại hàng hóa và dịch vụ như các “FTA truyền thống”; mức độ cam kết sâu nhất (cắt giảm thuế gần như về 0%, có thể có lộ trình); có cơ chế thực thi chặt chẽ hơn; mở rộng cam kết sang cả những lĩnh vực được coi là “phi truyền thống” như: Lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ, minh bạch hóa, cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư…

Tại Hội thảo khoa học quốc gia về chủ đề “Quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong bối cảnh thực thi các FTA: Thực trạng và giải pháp”.Ảnh: KN
Tại Hội thảo khoa học quốc gia về chủ đề “Quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong bối cảnh thực thi các FTA: Thực trạng và giải pháp”.Ảnh: KN

Thứ hai, thực tế việc thực thi các FTA, đặc biệt là, các FTA thế hệ mới đã và chắc chắn sẽ có tác động nhiều mặt, cả tích cực và những thách thức đối với nhiều lĩnh vực kinh tế như: thương mại quốc tế, đầu tư trong nước và nước ngoài… Thực tế cho thấy, cùng với quá trình thực thi các FTA thời gian qua, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2002 đến 2012 là 1.036 tỷ USD thì trong giai đoạn từ 2013 đến 2021 là 4.110 tỷ USD, tức là gấp 4 lần của 10 năm trước đó. Kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2023 là 681,1 tỷ USD, tức là gấp 6 lần so với bình quân năm giai đoạn 2002 - 2012 và tăng khoảng 50% so với bình quân năm của giai đoạn 2013 - 2021. Tổng kim ngạch xuất khẩu tính từ đầu năm đến ngày 15/11/2024 đã là 681,14 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2023 và vượt tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của năm 2023.

Thứ ba, cùng với sự gia tăng kim ngạch xuất, nhập khẩu còn là sự đa dạng hóa về các loại hình thương mại và các hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Đặc biệt, sự bùng nổ của thương mại điện tử với hàng ngàn sàn thương mại điện tử đã làm khối lượng đơn hàng giá trị nhỏ xuất khẩu, nhập khẩu gia tăng ở mức độ vô cùng lớn trong vài năm gần đây. Chỉ tính riêng hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc về Việt Nam qua sàn thương mại điện tử mỗi ngày trung bình có khoảng 4 đến 5 triệu đơn hàng giá trị nhỏ. Những điều này tạo ra áp lực và thách thức rất lớn đòi hỏi phải đổi mới toàn diện hoạt động quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, cả về phương thức quản lý, công nghệ quản lý và con người thực thi nhiệm vụ quản lý thuế.

Thứ tư, ngày 20/5/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 624/QĐ-TTg ban hành Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2030. Trong đó, một trong 6 yêu cầu và quan điểm phát triển Hải quan Việt Nam là “Phát triển Hải quan nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động thương mại, chống buôn lậu và gian lận thương mại hiệu quả; thực thi đầy đủ, toàn diện các cam kết quốc tế về thuế xuất nhập khẩu, hải quan và tạo thuận lợi thương mại mà Việt Nam đã ký kết; ứng phó hiệu quả với các thay đổi liên quan tới các biện pháp phòng vệ thương mại trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về Hải quan, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia”. Để đảm bảo yêu cầu đó, cần nghiên cứu đầy đủ bối cảnh trong nước và quốc tế có tác động đến các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa. Từ đó, có biện pháp cụ thể hóa các phương hướng đã được xác định trong Chiến lược. Như đã phân tích trên, thực thi các FTA có tác động nhiều mặt đến hoạt động quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

Ban Tổ chức hội thảo đã nhận và lựa chọn được 39 bài viết đăng Kỷ yếu hội thảo. Các bài viết đã tập trung phân tích sâu về nội dung các FTA và tác động của việc thực thi các FTA đến kinh tế Việt Nam và đến hoạt động quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam. Đặc biệt, phần lớn các bài viết trao đổi về các nội dung cụ thể cần cải cách cả về chính sách và quản lý thuế để đáp ứng những đòi hỏi thực tiễn về quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong bối cảnh thực thi các FTA.

TS Nguyễn Đình Chiến, Khoa Thuế và Hải quan, Học viện Tài chính báo cáo tham luận tại hội thảo.
TS Nguyễn Đình Chiến, Khoa Thuế và Hải quan, Học viện Tài chính báo cáo tham luận tại hội thảo. Ảnh:KN

Thực thi các FTA: Cơ hội, thách thức cho hàng hóa xuất, nhập khẩu

Tham luận tại hội thảo, TS Nguyễn Đình Chiến, Khoa Thuế và Hải quan, Học viện Tài chính, cho biết, tính đến cuối tháng 10/2024, Việt Nam đã tham gia 19 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 16 hiệp định đã có hiệu lực, 1 hiệp định vừa ký kết, 2 hiệp định đang đàm phán. Việc tham gia các FTA đã và đang đem lại cho Việt Nam những cơ hội trong phát triển kinh tế nói chung, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa nói riêng nhưng cũng đặt ra các thách thức, khó khăn trong hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh và nâng cao hiệu quả quản lý thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.

Dẫn chứng những nội dung TS Nguyễn Đình Chiến đã nghiên cứu về tác động của việc thực thi các FTA đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, cho thấy, tạo cơ hội hay thuận lợi của việc thực thi các FTA ở Việt Nam đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa thể hiện trên hai góc độ trực tiếp và gián tiếp. Trong đó, tác động trực tiếp thể hiện ở việc thực thi các FTA sẽ tạo điều kiện phát triển thương mại quốc tế, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu. Tác động gián tiếp thể hiện thông qua việc thực thi các FTA sẽ thúc đẩy phát triển nền kinh tế, tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần cải thiện thể chế, môi trường kinh doanh, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa.

Những tác động trực tiếp từ việc thực thi các các FTA cho thấy, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã không ngừng tăng trưởng trong các năm từ 2015 đến 2022. Năm 2023, với nhiều yếu tố khách quan từ điều kiện kinh tế thế giới và chính sách của các quốc gia nhập khẩu, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam không đạt được như kỳ vọng. Tính chung cả năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 681 tỷ USD, giảm 6,9% so với năm trước, trong đó xuất khẩu giảm 4,4%; nhập khẩu giảm 8,9%.

Tuy nhiên, cán cân thương mại tiếp tục ghi nhận xuất siêu năm thứ 8 liên tiếp với mức thặng dư kỷ lục ước đạt 28,36 tỷ USD, gấp 2,3 lần năm 2022.

Trong 10 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt kết quả tích cực, duy trì mức tăng cao với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 647,87 tỷ USD, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 14,9%; nhập khẩu tăng 16,8%.
Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 23,31 tỷ USD. Trong đó, hầu hết thị trường xuất khẩu, nhập khẩu đến từ các nước tham gia FTA với Việt Nam như Trung Quốc, Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN…

Cùng với sự tăng trưởng của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, các khoản thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu cũng có những thay đổi đáng kể. Mặc dù trong điều kiện thực thi các FTA, thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng trong các cam kết của các FTA phần lớn về mức 0%, làm giảm thu về thuế nhập khẩu, nhưng các khoản thuế khác đối với hàng hóa nhập khẩu như thuế TTĐB, thuế BVMT, thuế GTGT trong một số thời kỳ cũng có sự tăng trưởng. Từ đó, tăng số thu thuế trong cân đối xuất nhập khẩu.

Nâng cao hiệu quả quản lý thuế trong bối cảnh thực thi các FTA

Hầu hết các tham luận tại hội thảo đều cho rằng trong bối cảnh hội nhập và thực thi các cam kết FTA, công tác quản lý thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu đang đối mặt với những khó khăn lớn, như giảm thuế quan, kiểm soát xuất xứ hàng hóa, thay đổi chính sách thuế và gian lận thuế.

Đưa ra một số giải pháp, Cục Thuế xuất nhập khẩu (Tổng cục Hải quan) cho rằng, cần có giải pháp khắc phục sự suy giảm nguồn thu ngân sách do giảm thuế quan; Giải pháp trong kiểm soát xuất xứ hàng hóa; Giải pháp thích nghi với thay đổi chính sách thuế; Giải pháp phòng ngừa gian lận thuế và chuyển giá. Đặc biệt, trong các giải pháp cần chú trọng tới việc ứng dụng công nghệ, như việc ứng dụng công nghệ thông tin vào kiểm tra xuất xứ...

Ông Nguyễn Trường Giang, Cục trưởng Cục Hải quan Bà Rịa-Vũng Tàu trao đổi tại hội thảo.
Ông Nguyễn Trường Giang, Cục trưởng Cục Hải quan Bà Rịa-Vũng Tàu trao đổi tại hội thảo. Ảnh:KN

Đưa ra một số nội dung và kết quả nghiên cứu phân tích về một số khó khăn cụ thể về quản lý thuế trong bối cảnh thực thi FTA tại Cục Hải quan Bà Rịa - Vũng Tàu, ông Nguyễn Trường Giang, Cục trưởng Cục Hải quan Bà Rịa-Vũng Tàu đề cập tới việc áp dụng công nghệ. Dù đã triển khai hệ thống điện tử (VNACCS/VCIS), nhưng một số khâu như kiểm tra thực tế hàng hoá đối với các tờ khai luồng đỏ (bước 3), xác minh thông tin vẫn làm thủ công. Các dữ liệu quản lý rủi ro chủ yếu dựa trên lịch sử, không ứng dụng mạnh mẽ công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích các dấu hiệu bất thường mới. Dẫn đến hệ quả là có khả năng sai sót trong quá trình thu thuế, cả từ phía công chức hải quan và doanh nghiệp.Thời gian xử lý kéo dài, gây chậm trễ cho hoạt động XNK.

Cũng theo ông Giang, thiếu nhân lực và công nghệ hiện đại đang là một trong những khó khăn. Trong đó, công chức hải quan chưa được đào tạo bài bản để vận hành các hệ thống công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI) hoặc phân tích dữ liệu lớn (Big Data).

Đề xuất giải pháp, ông Giang cho rằng, cần hợp tác với các công ty công nghệ trong nước để xây dựng hệ thống AI phân tích bất thường từ dữ liệu tờ khai (VD: khai giảm giá trị hàng hóa). Thời gian: 12 tháng thử nghiệm, triển khai đầy đủ sau 18 tháng để nhận diện các trường hợp rủi ro trước khi kiểm tra thực tế, giảm thiểu sai sót và lạm dụng nhân lực, vật lực.

Bên cạnh đó, cần lập danh sách “Doanh nghiệp rủi ro” dựa trên AI cảnh báo và dữ liệu Big Data. Thực hiện 70% kiểm tra tập trung vào nhóm này nhằm giúp giảm thời gian kiểm tra đối với doanh nghiệp tuân thủ tốt. Song song đó, cần thiết lập cơ chế công khai trao đổi thông tin với hải quan Hàn Quốc, EU, Nhật Bản... thông qua cổng thông tin chung với mục đích phát hiện kịp thời hành vi khai sai trị giá hoặc xuất xứ hàng hóa. Đề xuất tăng mức phạt đối với hành vi khai sai mã HS hoặc gian lận thuế lên gấp ba lần trị giá thuế trốn.

Tuấn Nguyễn

Bình luận

Bình luận

Tin khác

Quảng bá thương hiệu Việt

Tôn vinh thương hiệu toàn cầu