Nét đẹp lao động nơi làng nghề truyền thống gần 700 tuổi
Với người dân làng Chều, họ làm nghề vì kinh tế, nhưng họ giữ nghề và truyền nghề vì yêu nghề. “Người không phụ nghề” nên “nghề cũng không phụ người”, những chiếc bánh đa nem đã đem lại thu nhập khá cho nhiều người, nhiều hộ dân nơi đây.
Một ngày nắng hanh đầu đông, chúng tôi có dịp tìm về một miền quê mộc mạc và bình dị, với bề dày lịch sử gần 700 năm gắn với nghề làm bánh đa nem. Khung cảnh nơi đây khiến chúng tôi háo hức xen lẫn tò mò muốn khám phá nơi bình yên- làng Chều (Lý Nhân, Hà Nam) giờ có gì đổi mới.
Người dân nơi đây kể rằng, vào khoảng năm 1349 (đời Trần Dụ Tông), một người con của làng Chều là cụ Trần Đình Hán làm nghề xay xát gạo, cụ đã phát minh, sáng tạo và đặt nền móng cho nghề làm bánh đa nem của làng Chều. Thời ấy, dân làng khó khăn, gạo làm ra tiêu thụ chậm nên cụ Hán đã nghĩ ra một cách là ngâm gạo xong giã nhuyễn thành bột nước và hấp lên nồi nước sôi đến khi nước bột thành bánh. Khi chín, mang ra phơi khô, thái thành miếng nhỏ như bánh phở bây giờ, sau đó đem nấu lên ăn thấy ngon và lạ miệng. Từ đó, mọi người cùng nhau làm theo và hoàn thiện dần thành món bánh đa nem truyền thống bây giờ.
Kể từ đó, cụ Hán được dân làng suy tôn làm ông tổ nghề bánh đa nem, thành hoàng làng và được thờ trong đình làng. Hằng năm, cứ vào ngày 10 tháng 2 âm lịch, dân làng Chều lại tổ chức lễ hội để tưởng nhớ đến công lao của cụ cũng như nhắc nhở con cháu giữ gìn nghề làm bánh đa nem truyền thống của làng...
Một ngày ở làng Chều được bắt đầu bằng sự hối hả. Từng tấm phên bánh được người dân đem phơi dọc đường làng, ngõ xóm. Bất kể có khoảng sân trống nào cũng sẽ là nơi phơi bánh.
Chốc chốc lại thấy có người rảo bước thu các phên bánh đã khô. Khung cảnh bình yên của làng Chều như được bừng lên theo tiếng cười nói, trò chuyện vui vẻ vang khắp làng.
Đứng gần những phên bánh, chúng tôi còn nghe rõ những tiếng lốp rốp vui tai, đó là dấu hiệu của bánh đang dần khô mặt và giảm độ bám dính vào phên.
Người dân nơi đây chia sẻ, nghề làm bánh đa nem không quá nặng nhọc nhưng cần sự cần mẫn. Hầu hết các độ tuổi, có sức khoẻ là đều có thể tham gia vào các công đoạn làm bánh.
Các cụ lớn tuổi trong làng cho biết, từ khởi thủy nghề, những đứa trẻ ở làng Chều đều biết phụ giúp việc làm bánh đa nem. Công việc phụ giúp đó vẫn được lặp lại từ thế hệ này qua thế hệ khác cho tới ngày nay.
Dạo bước quanh làng, không khó để thấy các ông, các bà lớn tuổi cũng miệt mài hỗ trợ con cháu và đó cũng là cách họ rèn luyện thân thể, giữ gìn sức khoẻ. Với những việc nặng hơn như phơi bánh, thu bánh thì đa phần là công việc của những người trẻ khỏe.
Nhắc đến bánh đa nem chắc hẳn đã quá quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Nó được dùng phổ biến làm các món nem rán, cuộn, cuốn... tuỳ theo thói quen ăn uống của mỗi người, mỗi vùng miền. Bánh đa nem làng Chều nổi tiếng với độ thơm, ngon, mềm dẻo, khi rán lên lại giòn và thơm ngậy.
Anh Thắng, một người dân làm nghề trong làng chia sẻ: Để có được những chiếc bánh thơm ngon đó, thì yếu tố đầu tiên là nguyên liệu, sau đó là thời tiết và các quy trình, kinh nghiệm làm bánh. Nguyên liệu chính và cũng là yếu tố người dân chủ động được để làm nên những chiếc bánh đa nem làng Chều cực kỳ đơn giản và gần gũi với tất cả mọi người, đó là gạo tẻ nhưng được chọn lựa rất kỹ lưỡng. Ngoài ra, trong quá trình làm bánh có gia giảm chút muối, nhưng tuyệt nhiên bánh đa nem làng Chều không dùng chất phụ gia độc hại, màu thực phẩm hay chất bảo quản...
Người dân làm nghề nơi đây, thường bắt đầu ngày mới từ 4-5h sáng, với những công việc chính như xay gạo, làm chín qua nồi áp suất, tráng bánh lên phên, đem phơi sau đó là bóc bánh và cắt tạo khuôn, trong khi đó việc ngâm gạo thường được thực hiện từ hôm trước.
Anh Thắng cho biết: Trước đây, bánh đa nem của làng được sản xuất chủ yếu là thủ công, thô sơ, tốn nhiều thời gian và công đoạn, quá trình làm còn nhiều khó khăn, đặc biệt là phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết. Nhưng những năm gần đây khi công nghệ ngày càng phát triển, dân làng không chỉ sản xuất bằng kinh nghiệm mà đã mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa máy móc vào sản xuất như: sử dụng nồi áp suất, dây truyền tráng bánh tự động, cắt bánh, hệ thống sấy, đóng gói... Tất cả vì mục tiêu rút ngắn quy trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh, đáp ứng các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
Rất nhiều công đoạn làm bánh đều được người dân tỉ mẩn hoàn thành, tuy vậy, nghề làm bánh đến nay vẫn phải 'trông trời, trông đất, trông mây...". Nguyên liệu là yếu tố mà người làm bánh chủ động được, nhưng thời tiết thì họ phụ thuộc. Do đó, người làm bánh thường xuyên phải "trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm", cập nhật dự báo thời tiết, để từ đó điều chỉnh những công đoạn trong quy trình làm bánh.
Ngay từ những khâu đầu tiên, pha chế nguyên liệu thì thời tiết đã đóng vai trò quan trọng; người làm nghề dựa vào thời tiết, độ ẩm của thời tiết để có thể gia giảm lượng muối cho phù hợp, để bánh mới không bị mốc hoặc bị vỡ ra khi thành phẩm.
Ngay như lúc trò chuyện, anh Thắng vẫn liên tục đem những phên bánh vào nhà, trong khi ngoài trời vẫn có nắng và bánh chưa khô hẳn. Anh Thắng giải thích rằng: Với thời tiết có nắng và hơi hanh như hôm nay thì sẽ không để nỏ bánh - khô mặt bánh ở ngoài trời được. Bởi nếu để bánh quá lâu ngoài trời với kiểu thời tiết như vậy, bánh sẽ bị mất độ ẩm, độ dẻo và dễ bị rách khi thành phẩm. Do đó, bánh cần được thu vào phòng sớm và tiếp tục được hong khô bằng quạt cho đến khi nỏ bánh.
"Bánh được phơi ngoài nắng sẽ thơm ngon hơn, nhưng cũng cần theo dõi để đưa bánh vào nhà khi phù hợp", anh Thắng nói.
Từ một món quà quê bình dị, đến nay sản phẩm bánh đa nem làng Chều đã có mặt ở hầu khắp mọi miền Tổ quốc, trong các nhà hàng, siêu thị... và hơn thế nữa là đã xuất khẩu đi các nước trên thế giới. Nghề làm bánh đa nem nơi đây đã trở thành nghề chính của rất nhiều người, giải quyết công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động tại địa phương.
Mỗi khi vào vụ, thời tiết thuận lợi, làng Chều lại rợp những phên bánh trên đường làng. Các ngõ xóm, người dong xe, người hối hả phơi bánh, thu bánh. Với người dân làng Chều, họ làm nghề vì kinh tế, nhưng họ giữ nghề và truyền nghề vì yêu nghề. “Người không phụ nghề” nên “nghề cũng không phụ người”, những chiếc bánh đa nem đã đem lại thu nhập khá cho nhiều người, nhiều hộ dân nơi đây.